Truyền thông trong Mục vụ và truyền giáo (Phần III)

66
0

PHẦN III: TRUYỀN THÔNG TRONG TRUYỀN GIÁO

Tác giả: Lm. Franz-Josef Eilers, SVD
Chuyển ngữ: Ủy ban Truyền thông Xã hội / HĐGMVN

I. RAO GIẢNG TIN MỪNG NHƯ LÀ TRUYỀN THÔNG

Truyền thông rao giảng Tin Mừng (hay truyền thông truyền giáo) là gì? Một chủ chăn tốt không chỉ quan tâm tới những người được giao phó cho mình trực tiếp chăm sóc, mà cũng phải chăm lo cho những người sống quanh mình mặc dù họ không phải là ‘đàn chiên’ trực tiếp của mình. Theo nghĩa này, ở một mức độ nào đó truyền thông mục vụ cũng là rao giảng Tin Mừng. Nhưng quan tâm chủ yếu của người mục tử vẫn là dân ‘của ông,’ là những người ông chăm sóc và truyền thông với họ. Trong cách hiểu này, truyền thông mục vụ chủ yếu là truyền thông đối nội (ad intra) cho cộng đoàn Kitô hữu và Hội Thánh. Tuy nhiên, truyền thông đối ngoại (ad extra) chủ yếu quan tâm tới những người mà cách này hay cách khác không phải là phần tử của đàn chiên. Hội Thánh hiện hữu không chỉ cho cộng đoàn các tín hữu (‘Koinonia’) mà còn được sai đi chia sẻ và loan báo Tin Mừng cho toàn Thế Giới (x. Mt 28,19: ‘Kerygma’).

Công đồng Vatican II (Sắc lệnh về Truyền giáo Ad Gentes, số 2) nhắc nhở chúng ta rằng truyền giáo là thành phần cốt yếu của Hội Thánh. Hội Thánh hiện hữu là để truyền giáo! “Hội Thánh ở trần gian tự bản tính là truyền giáo, vì theo ý định của Chúa Cha, Hội Thánh bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Thông điệp Redemptoris Missio (số 34) cắt nghĩa chi tiết hơn: “Hoạt động truyền giáo đúng nghĩa, tức là sứ mạng ‘đến với muôn dân’ (ad gentes) là hướng tới ‘các dân tộc hay các nhóm người chưa tin Đức Kitô’, ‘những người còn ở xa Đức Kitô’, nơi họ Hội Thánh ‘chưa đâm rễ’ và văn hoá của họ chưa chịu ảnh hưởng của Tin Mừng. Hoạt động truyền giáo khác với các hoạt động khác của Hội Thánh theo nghĩa là nó nhắm tới các nhóm người và các khung cảnh không phải Kitô giáo vì ở đó việc rao giảng Tin Mừng và sự hiện diện của Hội Thánh còn chưa có hay chưa đủ. Vì vậy có thể mô tả nó là hoạt động loan báo Đức Kitô và Tin Mừng của Người, xây dựng Hội Thánh địa phương và cổ xuý các giá trị của Nước Thiên Chúa. Bản chất riêng của sứ mạng ad gentes này hệ tại việc đến với những người ‘ngoài Kitô giáo’”. Đức Giáo hoàng (Gioan Phaolô II) phân biệt giữa việc chăm sóc mục vụ cho các tín hữu, việc Tin Mừng hoá mới và hoạt động truyền giáo chuyên biệt mà ngài gọi là sứ mạng ad gentes.

Truyền thông Truyền giáo liên quan tới sứ mạng ad gentes này. Nó liên quan tới đường lối truyền thông, các phương tiện và cách thức truyền thông ad gentes (cho muôn dân). Nó là sự truyền thông loan báo chứ không chỉ là ‘duy trì’ hay đào sâu hay nuôi dưỡng giống như truyền thông mục vụ theo nghĩa hẹp.

Truyền thông rao giảng Tin Mừng cũng có thể được gọi là truyền thông kerygmatic, truyền thông loan báo hay truyền thông truyền giáo. Nó quan tâm tới việc quảng bá Tin Mừng và mở rộng Nước Thiên Chúa vượt ra ngoài ranh giới hạn hẹp của Hội Thánh. Kể từ ngày đầu của Hội Thánh vào lễ Hiện Xuống, truyền thông truyền giáo đã luôn luôn ở tâm điểm của Hội Thánh và lịch sử Truyền giáo sẽ minh chứng đường lối này.

1.1. Truyền thông rao giảng Tin Mừng trong lịch sử truyền giáo

Truyền thông rao giảng Tin Mừng vẫn luôn luôn ở tâm điểm của cộng đoàn Kitô giáo. Vào ngày lễ Hiện Xuống, khi Thánh Phêrô đứng lên loan báo trong quyền năng Chúa Thánh Thần những hành động và tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô (x. Cv 2,1-41), thì đó là truyền thông truyền giáo, truyền thông loan báo Tin Mừng. Tất cả lịch sử thời kỳ đầu của Hội Thánh là một lịch sử của một hoạt động truyền thông như thế. Sách Công vụ Tông đồ, được coi là quyển sách đầu tiên về Hội Thánh truyền thông, kể lại các hành động của Chúa Thánh Thần trong việc soi sáng cho Hội Thánh sơ khai truyền thông Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô cho một thế giới còn chưa biết Người. Cả cuốn sách giống như bản ‘Hiến Chương’ cho việc truyền thông loan báo Tin Mừng. Tràn đầy Chúa Thánh Thần, các môn đệ đi khắp Châu Á và đến tận Châu Âu để chia sẻ các niềm xác tín và đức tin của họ. Dù những khó khăn như các cuộc bách hại và các trở ngại khác cũng không ngăn cản nổi họ rời xa việc truyền thông Tin Mừng bằng mọi cách. Thực vậy, họ thấy tất cả những trở ngại ấy chính là những hướng đi mà Thần Khí ban cho để thực hiện các cuộc mạo hiểm mới.

Trong lịch sử Hội Thánh luôn luôn có những con người vĩ đại truyền thông tình thương của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, như các vị truyền giáo mà ĐGH Grêgôriô Cả sai đi với Thánh Augustinô Canterbury tới nước Anh vào thế kỷ 6; các vị truyền giáo người Ai Len đến Trung Âu từ thế kỷ 8 trở đi. Có các vị truyền giáo như Cha John de Montecorvino và các bạn đồng hành của ngài chủ yếu thuộc dòng Phanxicô đã đi đến Trung Á và Trung Hoa. Có các vị truyền giáo và các nhà truyền thông lỗi lạc ở thế kỷ 16 với một tinh thần thích nghi đặc biệt với văn hoá như Cha Mattero Ricci, S.J. (1552-1610) mà ngày nay vẫn được người Trung Hoa coi là một con người đặc biệt; Cha Roberto de Nobili, S.J. (1577-1656) tại Ấn Độ và Cha Bartolome de las Casas, O.P. (1484-1566) tại Châu Mỹ Latinh. Các cao trào truyền giáo vào thế kỷ 19 với việc sáng lập nhiều tu hội truyền giáo là một minh chứng nữa về một ước muốn sống động muốn truyền thông vượt ra ngoài các ranh giới hạn hẹp của Hội Thánh địa phương.

Hồng y Francesco Ingoli, Bộ Trưởng đầu tiên của Thánh Bộ Truyền bá Đức tin tại Rôma chính là người đã phản ánh một cách đặc biệt khía cạnh truyền thông đang thấm nhuần các công nghệ truyền thông tiên tiến của thời ấy. Bốn năm sau khi Thánh Bộ Truyền bá Đức tin được thiết lập, năm 1626 ngài đã mở nhà in riêng có khả năng in hơn 20 thứ tiếng khác nhau, trong đó có cả tiếng Malayalam ở Ấn Độ. Các sách và các ấn phẩm khác trong đó có các sách Kinh Thánh đã được in ra để phục vụ việc truyền thông rao giảng Tin Mừng. Khi bảo vệ sáng kiến này trước các hồng y ở Rôma, Hồng y Ingoli đã đưa ra các lý do sau đây:

  1. Việc học ngôn ngữ của các nhà truyền giáo tương lai tại Rôma cần có các sách đặc biệt.
  2. Chi phí in sách với nhà in riêng rẻ chỉ bằng 1/3 chi phí in tại các nhà in khác.
  3. Chỉ có Nhà In của Thánh Bộ Truyền bá Đức tin là chuyên môn về các ngôn ngữ khác nhau, kể cả các ngôn ngữ Ấn Độ.
  4. Nếu người Tin Lành in và phân phát nhiều sách Kinh Thánh như thế, thì người Công giáo cũng phải theo gương họ.
  5. Sứ mạng của Chúa Giêsu buộc chúng ta phải sử dụng sách để hoạt động truyền giáo. “Các nhà truyền giáo không thể hoàn thành sứ mạng nếu không có sách, và sách cũng đến được những nơi mà các nhà truyền giáo không đến được.
  6. Để truyền bá Lời Thiên Chúa, thì không một sự đầu tư nào là quá đắt (x. Eilers, 2002, tr. 67tt). 

Hầu hết các văn kiện Giáo hoàng về Truyền giáo từ thế kỷ 19 trở đi đều nói về nhu cầu truyền thông loan báo Tin Mừng. Các văn kiện ấy khuyến khích sử dụng mọi phương tiện hiện đại đang có, đặc biệt các ấn phẩm, nhưng cả việc phát sóng, phim ảnh và các đa phương tiện hiện đại. Một trong những lời khích lệ gần đây nhất là thông điệp của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho Ngày Thế giới Truyền thông 2002 nói về “Internet – Một Diễn đàn mới cho việc Loan báo Tin Mừng”.

1.2. Từ Truyền thông cá nhân đến truyền thông đại chúng

Truyền thông truyền giáo không chỉ giới hạn vào các phương tiện truyền thông hiện đại hay các người truyền thông chuyên nghiệp trong việc phục vụ “Sứ mạng ad gentes”. Truyền thông truyền giáo là mọi hoạt động nhắm vào việc chia sẻ và truyền bá tình thương và ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho loài người vượt qua mọi ranh giới – vật chất hay tinh thần – của cộng đồng Kitô giáo đã được thiết lập. Cách hiểu này cũng đã được diễn tả trong sự “đối thoại ba chiều” của “Liên Hội đồng Giám mục Châu Á” (FABC): đối thoại với người nghèo, với các nền văn hoá, và với các tôn giáo (x. Hội nghị Toàn thể của FABC, Bandung 1990; Rosales/Arevalo 1997, tr. 273-289).

Trong sứ mạng của Người, chính Đức Giêsu Kitô đã truyền thông trên mọi bình diện của mối tương tác con người. Người giảng dạy cho quần chúng bằng các câu truyện, các dụ ngôn, các lời tuyên bố, và Người chia sẻ trong các nhóm nhỏ hơn với các tông đồ và môn đệ của Người. Người cũng gặp gỡ các cá nhân như ông Nicôđêmô, người phụ nữ Samaria và nhiều cá nhân khác bằng một sự chia sẻ sâu xa và rất cá nhân. Việc truyền thông truyền giáo được xây dựng trên mẫu mực của Đức Giêsu Kitô, luôn luôn tìm cách gặp gỡ con người ở trình độ tri thức, tình cảm và hiểu biết của họ để đưa họ từ các kinh nghiệm cuộc đời của họ đến gần với Cha và sự sống vĩnh cửu hơn. Như vậy, truyền thông truyền giáo bao gồm mọi bình diện và mọi phương tiện truyền thông, từ bình diện cá nhân, qua truyền thông nhóm cho tới các phương tiện truyền thông đại chúng và các phương tiện truyền thông hiện đại ngày càng phát triển nhiều hơn, cho tới việc truyền thông trong các nhóm chuyên môn và truyền thông cá nhân qua Internet trong không gian mạng (‘cyberspace’). Việc phát triển phương thức truyền thông như thế trong bối cảnh các phát triển của Hội Thánh thời nay có thể được diễn tả một cách tiêu biểu khi suy nghĩ về Tông huấn Ecclesia in Asia trong một viễn tượng truyền thông truyền giáo (xem số 3 dưới đây).

Hướng chính của truyền thông truyền giáo là đạt đến và nâng đỡ những người chưa là thành viên đầy đủ của cộng đoàn Kitô hữu. Tuy nhiên, nó cũng bao gồm mọi cố gắng truyền thông cho “sứ mạng ad gentes” trong lòng Hội Thánh để chuẩn bị các người rao giảng Tin Mừng và giúp họ có khả năng đến với những người ở ngoài Hội Thánh. Vì vậy các hoạt động như sinh động hoá truyền giáo, cổ vũ truyền giáo và các hoạt động truyền thông của các tu hội truyền giáo cũng phải được coi là truyền thông truyền giáo, theo nghĩa rộng.

1.3. Văn hoá và truyền thông

Truyền thông truyền giáo có một tương quan đặc biệt với văn hoá. Với mối quan tâm bền bỉ của ngài về văn hoá (cũng xem Gaudium et Spes, số 53-62), ĐGH Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh điểm này trong một cuộc triều kiến ngày 9-11-2002 dành cho những người hoạt động trong lĩnh vực này và được sự hỗ trợ của HĐGM Ý. Ngài nhắc nhở họ rằng “truyền thông tạo nên văn hoá và văn hoá được truyền đi nhờ truyền thông. Nhưng văn hoá nào”, ĐGH nói tiếp, “có thể được tạo ra bởi truyền thông mà không đặt trọng tâm vào phẩm giá con người, khả năng giúp giải quyết các vấn đề lớn của cuộc sống con người, bổn phận phục vụ lợi ích chung một cách chân thành, và chú ý tới các vấn đề về sự sống chung trong công lý và hoà bình? Cần có những con người trong lĩnh vực này, để với khả năng thiên phú của đức tin, họ có thể giải thích các nhu cầu văn hóa đương đại, dấn thân vào thời đại truyền thông không phải như một thời đại suy đồi và hỗn loạn, nhưng như một thời đại có giá trị cho việc tìm kiếm sự thật và phát triển sự truyền thông giữa các con người và các dân tộc. Chúng ta phải ngày càng ý thức hơn khi đứng trước ‘Areopago mới’ này, vốn được hình thành chủ yếu bởi các phương tiện truyền thông, khiến cho ‘chính việc loan báo Tin Mừng cho nền văn hoá thời nay tuỳ thuộc một phần lớn vào ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông” (RM, số 37c). Chúng ta có thể cảm thấy mình bất cập và không được chuẩn bị, nhưng dù sao chúng ta cũng không được nản lòng. Chúng ta biết mình không đơn độc: chúng ta được nâng đỡ bởi một nguồn sức mạnh vô biên phát sinh từ cuộc sống của chúng ta với Chúa…”.

1.4. Các hướng dẫn cho việc truyền thông truyền giáo

Có một số hướng dẫn chung cho việc truyền thông truyền giáo mà chúng ta có thể rút ra từ Tông huấn Ecclesia in Asia nói về việc “loan báo Đức Kitô tại Châu Á” (số 20). Các hướng dẫn này có thể tóm tắt như sau:

1. Hãy biết rằng “nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, nơi mỗi cá nhân và mỗi dân tộc đều đã có một sự mong đợi, cho dù là vô thức, được biết sự thật về Thiên Chúa, về con người, và về cách thức làm thế nào chúng ta có thể được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết” (x. RM, số 45).

2. “Hội Thánh vâng lệnh Chúa Kitô rao giảng Tin Mừng, vì biết rằng mọi người có quyền được nghe Tin Mừng; Hội Thánh làm việc này không phải vì bị thúc đẩy bởi một động cơ bè phái hay chủ nghĩa chiêu mộ tân tòng hay bất cứ mặc cảm tự tôn nào”.

3. Truyền thông truyền giáo là “việc phục vụ tối thượng mà Hội Thánh có thể cống hiến” để “làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô”. Việc phục vụ này đáp ứng “khát vọng thâm sâu của các dân tộc về Đấng Tuyệt Đối: nó bộc lộ những sự thật và những giá trị sẽ bảo đảm cho sự phát triển nhân bản toàn diện của họ”.

4. Việc Truyền thông Truyền giáo của Hội Thánh bằng loan báo Tin Mừng phải được làm “với lòng kính trọng thân thương và quý mến đối với người nghe”; việc truyền thông này phải “tôn trọng các quyền của các lương tâm… không vi phạm quyền tự do, vì đức tin luôn luôn đòi hỏi một sự đáp ứng tự do từ phía cá nhân”.

5. “Tuy nhiên, lòng tôn trọng không loại trừ nhu cầu phải loan báo công khai Tin Mừng trong tất cả sự toàn vẹn của nó”.

6. Sự tôn trọng của việc Truyền thông Truyền giáo đối với các tôn giáo khác có hai khía cạnh: a) “tôn trọng con người trong cuộc tìm kiếm các câu trả lời cho các câu hỏi thâm sâu nhất của đời họ; và b) tôn trọng hành động của Chúa Thánh Thần nơi mỗi con người”.

II. TRUYỀN THÔNG TRUYỀN GIÁO TRONG CÁC VĂN KIỆN CỦA HỘI THÁNH

Về việc truyền thông truyền giáo, có nhiều suy tư trong các văn kiện cơ bản của Hội Thánh về truyền thông xã hội và các thông điệp giáo hoàng cho Ngày Thế giới Truyền thông, là những suy tư phải được lưu tâm một cách đặc biệt.

* Theo sau tuyên bố của Inter Mirifica rằng Hội Thánh tự bản chất có quyền truyền thông (số 3), Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio nhấn mạnh về nhu cầu rao giảng (số 126): “Đức Kitô đã truyền cho các Tông đồ và những người kế vị các ngài đi ‘dạy dỗ muôn dân’, làm ‘ánh sáng cho thế gian’ và loan báo Tin Mừng ở mọi nơi và mọi thời. Trong cuộc sống trần gian của Người, Đức Kitô đã tỏ ra là một người truyền thông hoàn hảo, còn các Tông đồ cũng sử dụng mọi phương tiện truyền thông xã hội hiện có vào thời đại của các ngài. Ngày nay cùng một thông điệp ấy cũng cần được truyền đi bằng mọi phương tiện truyền thông đang có hôm nay. Thật vậy, sẽ khó có thể nghĩ rằng lệnh truyền của Đức Kitô được tuân thủ nếu chúng ta không sử dụng mọi cơ hội mà các phương tiện truyền thông hiện đại cống hiến cho chúng ta để loan báo Tin Mừng của Người cho biết bao con người thời nay…”.

* Cùng văn kiện này (số 128) còn cho thấy thêm rằng “các phương tiện truyền thông hiện đại cống hiến những cách thức mới để đưa con người đối diện với thông điệp Tin Mừng, cho phép những người Kitô hữu dù ở những nơi rất xa xôi vẫn có thể cùng tham dự các nghi thức thánh, các việc thờ phượng và các hoạt động của Hội Thánh…

* Một lời đặc biệt về truyền thông truyền giáo được nói ra trong Aetatis Novae, ở đó (số 8) các điều kiện của truyền thông xã hội trong hoạt động truyền thông truyền giáo được cắt nghĩa chi tiết hơn: “Những ai loan báo Lời Thiên Chúa có nghĩa vụ phải lắng nghe và cố gắng hiểu những ‘lời nói’ của các dân tộc và các nền văn hoá khác nhau… Vì vậy Hội Thánh phải duy trì một sự hiện diện tích cực, không ngừng lắng nghe thế giới – một thứ hiện diện vừa nuôi dưỡng cộng đoàn vừa nâng đỡ những con người trong việc tìm kiếm những giải pháp có thể chấp nhận được cho các vấn đề cá nhân và xã hội. Hơn nữa, vì Hội Thánh phải luôn luôn loan truyền thông điệp của mình một cách thích hợp với mỗi thời đại và nền văn hoá của mỗi nước và mỗi dân tộc, nên Hội Thánh hôm nay phải truyền thông trong và cho nền văn hoá truyền thông mới xuất hiện… Vì vậy, khi tìm cách đi vào cuộc đối thoại với thế giới đương đại, Hội Thánh nhất định mong muốn có những cuộc đối thoại chân thành và trân trọng với những người có trách nhiệm về các phương tiện truyền thông… Thế nên một sự đối thoại như thế đòi Hội Thánh phải tích cực quan tâm tới các phương tiện truyền thông thế tục, và đặc biệt quan tâm tới việc hình thành chính sách truyền thông. Thực vậy, người Kitô hữu có trách nhiệm làm cho tiếng nói của mình được nghe thấy trên mọi phương tiện truyền thông, và nhiệm vụ này không chỉ giới hạn vào việc cung cấp các tin tức của Hội Thánh. Đối thoại cũng cần có sự nâng đỡ dành cho các chuyên gia truyền thông; nó đòi hỏi việc triển khai một khoa nhân học và thần học về truyền thông – việc này cũng giúp ích không ít để chính thần học có thể mang nhiều giá trị truyền thông hơn.

* Cũng văn kiện này (số 9) còn mô tả nhiều hơn về sứ mạng của truyền thông truyền giáo qua những lời sau đây: “Tự bản chất của nó, truyền thông trong và bởi Hội Thánh là truyền thông về Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Đó là loan báo Tin Mừng như là một lời tiên tri, có sức giải phóng cho mọi con người ở thời đại chúng ta. Trước tình trạng thế tục hóa triệt để của thế giới hôm nay, nó là một chứng tá về chân lý của Thiên Chúa và về số phận siêu việt của con người; nó là một chứng tá của sự đoàn kết giữa mọi tín hữu chống lại những xung đột và chia rẽ, một chứng tá về công lý và hoà hợp giữa các dân tộc, các quốc gia và các nền văn hoá. Cách hiểu này của Hội Thánh về truyền thông chiếu rọi một ánh sáng độc đáo vào lĩnh vực truyền thông xã hội và vào vai trò của các phương tiện truyền thông mà Chúa Quan Phòng đã định cho chúng thể hiện để đẩy mạnh sự phát triển toàn diện của con người và xã hội”.

* Một lời đặc biệt về truyền thông truyền giáo được nói lên ở số 11 trong cùng văn kiện: “Cùng với các phương tiện truyền thống như chứng tá đời sống, huấn giáo, tiếp xúc cá nhân, lòng đạo đức bình dân, phụng vụ và các cuộc cử hành mừng lễ, việc sử dụng các phương tiện truyền thông hôm nay là thành phần thiết yếu trong việc rao giảng Tin Mừng và huấn giáo. Thực vậy, ‘Hội Thánh sẽ cảm thấy có lỗi trước mặt Thiên Chúa nếu không vận dụng các phương tiện mạnh mẽ này mà tài năng con người không ngừng làm cho phát triển và hoàn thiện mỗi ngày’ (EN, số 45). Các phương tiện truyền thông xã hội có thể và phải là các công cụ của chương trình tái Tin Mừng hoá và tân Tin Mừng hoá của Hội Thánh trong thế giới hôm nay…”.

* Nhiều thông điệp giáo hoàng cho các Ngày Thế giới Truyền thông lấy việc rao giảng Tin Mừng làm một đề tài đặc biệt: “Rao giảng Tin Mừng trong thế giới hôm nay” (1974), “Loan báo thông điệp của Đức Kitô trong các phương tiện truyền thông” (1992), “Loan báo Đức Kitô trong các phương tiện truyền thông trước thềm thiên niên kỷ mới” (2000), “Rao giảng trên các mái nhà: Tin Mừng trong thời đại truyền thông toàn cầu” (2001) và “Internet: Một hình thức mới để loan báo Tin Mừng” (2002).

1974 là năm của Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về Rao giảng Tin Mừng, sự kiện này cũng đã ảnh hưởng tới chủ đề của ngày Chúa Nhật Thế giới Truyền thông năm ấy. Trong thông điệp của ngài nhân dịp này, ĐGH Phaolô VI đã trích lời của chính ngài trong Thông điệp Ecclesiam Suam khi nêu lên một trong các lý do của việc truyền thông truyền giáo: “Nếu Hội Thánh thực sự ý thức Chúa muốn Hội Thánh phải như thế nào, thì từ nơi Hội Thánh phải tuôn trào một ước muốn sung mãn và một sự thôi thúc mãnh liệt để loan truyền một sứ mạng vượt lên trên chính Hội Thánh, một lời loan báo mà Hội Thánh phải truyền đi” (Eilers 1997, số 597). ĐGH nói tiếp rằng bổn phận này “bị chi phối bởi các hoàn cảnh đặc thù của mỗi thời đại lịch sử”, và ngài trích dẫn thêm Communio et Progressio (số 126): “Thật vậy, sẽ khó có thể nghĩ rằng lệnh truyền của Đức Kitô được tuân thủ nếu chúng ta không sử dụng mọi cơ hội mà các phương tiện truyền thông hiện đại cống hiến cho chúng ta để loan báo Tin Mừng của Người cho biết bao con người thời nay…”. ĐGH còn nói: “Rao giảng Tin Mừng là một phần thiết yếu của sứ mạng Hội Thánh, được Đức Kitô sai vào thế giới để loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật” (Mt 16,15), và ngài vạch ra tầm quan trọng của việc làm chứng bằng đời sống: “Suy nghĩ kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy rằng toàn thể cuộc đời người Kitô hữu sống phù hợp với Tin Mừng thì liên tục ở trong tình trạng rao giảng Tin Mừng giữa thế giới… Họ mang chứng tá Tin Mừng, đóng góp sự cống hiến của mình như hạt men Kitô giáo, một ảnh hưởng Kitô giáo từ bên trong. Và trong thế giới truyền thông xã hội, ảnh hưởng Kitô giáo này tìm được một viễn tượng rộng lớn và có một tầm quan trọng ghê gớm”.

ĐGH Phaolô VI nhìn thấy 3 điểm đáng chúng ta đặc biệt suy nghĩ:

1. “Có nhu cầu đặt các kênh thông tin hiện đại và các dịch vụ liên hệ vào trong một dòng phát triển có thể giúp phổ biến Tin Mừng và tạo một bầu khí thuận lợi cho việc kiện cường các khái niệm như phẩm giá con người, công lý, tình huynh đệ đại đồng; các giá trị giúp cho con người dễ hiểu hơn về ơn gọi đích thực của mình và đồng thời mở đường cho một sự đối thoại xây dựng với người khác và sự kết hợp với Thiên Chúa”.

2. “Có cuộc tìm kiếm các phương pháp tông đồ mới và tiên tiến bằng cách ứng dụng các dụng cụ nghe nhìn mới và các dụng cụ tương tự cho huấn giáo, hoạt động giáo dục dưới nhiều hình thức, việc giới thiệu về đời sống, phụng vụ và các mục tiêu của Hội Thánh, nhưng trên hết là ứng dụng vào việc làm chứng đức tin và đức ái, là những nhân đức làm cho Hội Thánh luôn luôn sinh động và đổi mới không ngừng”.

3. “Người Kitô hữu phải tìm cách sử dụng tốt nhất các phương tiện truyền thông xã hội để đến được với các quốc gia, các xã hội và các cá nhân mà hoạt động tông đồ bằng lời không thể trực tiếp đến được vì các hoàn cảnh đặc thù, hay vì thiếu các thừa tác viên, hay vì Hội Thánh không thể thi hành sứ mạng một cách tự do được”.

Thông điệp tiếp theo cho Ngày Thế giới Truyền thông, trực tiếp liên quan tới truyền thông truyền giáo là thông điệp cho năm 1992: “Loan báo Thông điệp của Đức Kitô qua các Phương tiện Truyền thông Đại chúng”, Trong thông điệp này, Đức Gioan Phaolô II nhìn thấy các cách thức khác nhau sau đây để loan báo và rao giảng Tin Mừng:

1. “Chúng ta nói lên điều đó trước tiên bằng chứng tá đời sống của chúng ta, vì như Đức Phaolô VI đã nói một cách khôn ngoan: ‘Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy, và nếu họ nghe các thầy dạy, thì đó là vì những người này là những chứng nhân’ (EN, số 41). Người ta mong đợi chúng ta phải như một thành trì trên ngọn đồi, một cái đèn trên giá đèn, để ai cũng có thể thấy được, ánh sáng của chúng ta phải chói lọi như ngọn hải đăng, để chỉ lối an toàn tiến về quê trời bình an (x. Mt 5,13,14).

2. “Khi đời sống cá nhân và cộng đoàn của chúng ta biểu thị các niềm tin và các giá trị mà chúng ta tuyên nhận trong tư cách người Kitô hữu, việc ấy không thể không lôi kéo sự chú ý của thế giới bởi mọi phương tiện truyền thông phản ánh thực tại của các sự vật. Loan báo thông điệp của Đức Kitô bằng cách này đã có thể tạo được một lợi ích lớn rồi…”.

3. “Nhưng các người theo Đức Kitô còn phải loan báo Người một cách công khai hơn nữa. Chúng ta có nghĩa vụ loan báo niềm tin của chúng ta ‘giữa thanh thiên bạch nhật’ và ‘từ trên các mái nhà’ (Mt 10,27; Lc 12,3) mà không sợ hãi hay xuyên tạc, thích nghi thông điệp của Thiên Chúa một cách tự nhiên với các cách nói năng và suy nghĩ của họ’ (C&P, số 11), và luôn luôn tỏ ra tế nhị đối với các niềm tin và xác tín hiện có của họ giống như chúng ta muốn họ cũng tỏ ra như thế đối với các niềm tin của chính chúng ta. Việc rao giảng của chúng ta phải luôn luôn thấm nhuần lòng tôn trọng dưới hai khía cạnh mà Hội Thánh nhấn mạnh: tôn trọng mọi người không trừ một ai trong cuộc tìm kiếm các câu trả lời cho các câu hỏi thâm sâu nhất của đời họ, và tôn trọng hành động của Chúa Thánh Thần vốn luôn hiện diện một cách bí nhiệm nơi tâm khảm mọi người (x. RM, số 29)”.

4. “Chúng ta nên nhớ Đức Kitô không bao giờ áp đặt lời dạy của ngài trên một ai. Người trình bày giáo huấn của Người cho mọi người không trừ ai, nhưng để cho mỗi người tự do đáp lại lời mời của Người. Đây là mẫu mà chúng ta là môn đệ Người phải theo… Chúng ta không cảm thấy có bổn phận phải xin lỗi vì cống hiến thông điệp của Đức Kitô cho mọi người, chúng ta tuyên bố với đầy xác tín rằng quyền và bổn phận của chúng ta buộc chúng ta không được làm ít hơn thế”.

5. “Có một quyền và nghĩa vụ tương ứng là sử dụng mọi phương tiện truyền thông mới của thời đại chúng ta vì mục đích này. Thật vậy, Hội Thánh sẽ cảm thấy có lỗi trước mặt Thiên Chúa nếu không vận dụng các phương tiện mạnh mẽ này mà tài năng con người không ngừng làm cho phát triển và hoàn thiện mỗi ngày’ (EN, số 45)”.

Ba thông điệp đầu tiên cho Ngày Thế giới Truyền thông ở đầu thiên niên kỷ thứ ba và thế kỷ 21 đặc biệt nói về việc truyền thông truyền giáo của Hội Thánh.

Đức Gioan Phaolô II (2000) nhắc chúng ta nhớ lại tinh thần truyền thông truyền giáo rất sinh động của các Kitô hữu thời kỳ đầu như được thuật lại trong sách Công vụ Tông đồ, tinh thần này cũng rất cần hôm nay. Cơ bản nó diễn ra ở 3 mức độ: 1) Truyền thông cá nhân; 2) Các cách thức truyền thông xưa kia trong xã hội loài người; và 3) Truyền thông qua các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Trong tất cả các mức truyền thông này, người truyền thông Kitô giáo, “ngoài việc loan báo gián tiếp… cũng phải tìm ra các cách thức để nói công khai về Đức Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh, về chiến thắng của Người trên tội lỗi và sự chết, một cách thích hợp với phương tiện sử dụng và với khả năng của người nghe”. Để làm việc này, không chỉ cần sự đào tạo chuyên môn: “Để làm chứng cho Đức Kitô, cần phải đích thân gặp gỡ Người và nuôi dưỡng mối quan hệ thân thiết với Người qua kinh nguyện, Thánh Thể và Bí tích Hoà Giải, đọc và suy niệm Lời Chúa, học các giáo thuyết Kitô giáo và phục vụ người khác. Và nếu việc này được làm một cách trung thực, thì đó luôn luôn là công việc của Chúa Thánh Thần hơn là của chính chúng ta”.

Đức Giáo Hoàng coi việc truyền thông truyền giáo ở đây “không chỉ là bổn phận mà là một đặc ân”. Khi nói về mối tương quan ngày càng gia tăng giữa thực tại và truyền thông đương đại, ĐGH Gioan Phaolô II năm 2001 nhắc nhớ chúng ta về ‘sứ mạng ad gentes’ của Hội Thánh rằng truyền thông là một thách thức đặc biệt đối với việc truyền thông truyền giáo. “Thực thế, mọi loại phương tiện truyền thông có thể đóng một vai trò thiết yếu trong việc rao giảng Tin Mừng trực tiếp và trong việc đem đến cho con người các sự thật và các giá trị nâng đỡ và thăng tiến phẩm giá con người. Trên thực tế, sự hiện diện của Hội Thánh trong truyền thông là một khía cạnh quan trọng của việc hội nhập Tin Mừng được đòi hỏi bởi cuộc Tin Mừng hoá mới mà Chúa Thánh Thần đang kêu gọi Hội Thánh thực hiện trên khắp thế giới”.

Các khả năng mới cho việc loan báo Tin Mừng trên Internet là một quan tâm đặc biệt của thông điệp năm 2002: “Đối với Hội Thánh, thế giới mới của không gian mạng là một lời kêu gọi đi vào cuộc mạo hiểm vĩ đại của việc sử dụng các tiềm năng của nó cho việc loan báo thông điệp Tin Mừng. Thách thức này nằm ở tâm điểm của việc thực thi vào đầu thiên niên kỷ này lệnh truyền của Chúa: ‘Ra chỗ sâu mà thả lưới’ (Duc in altum, Lc 5:4)… Internet có thể cống hiến những cơ hội tuyệt vời cho việc rao giảng Tin Mừng nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách tài tình và biết rõ những điểm mạnh cũng như điểm yếu của nó”.

Trong thông điệp của ngài, Đức Giáo Hoàng thấy Internet đóng một vai trò đặc biệt cho sự gặp gỡ thông điệp Kitô giáo lần đầu tiên và cả sau này để đào sâu và sống trung thành với đức tin Kitô giáo. Internet không thể thay thế cho kinh nghiệm đức tin của cá nhân, nhưng bổ sung cho kinh nghiệm này.

Trong một ghi chú quan trọng, cũng có liên quan tới truyền thông truyền giáo, Đức Giáo Hoàng nhận xét: “Internet định nghĩa lại một cách cơ bản mối tương quan tâm lý của một người với thời gian và không gian. Sự chú ý được gắn chặt vào những điều có thể thấy được, sờ được, có lợi và có thể có tức khắc; các kích thích để suy tư sâu hơn có thể thiếu. Nhưng con người có một nhu cầu sống còn về thời gian và sự yên tĩnh nội tâm để suy nghĩ và xem xét cuộc đời và các bí ẩn của nó, và để lớn lên dần dần tới mức trưởng thành trong việc làm chủ bản thân mình và thế giới xung quanh. Sự hiểu biết và khôn ngoan là kết quả của một con mắt biết chiêm ngắm thế giới, chứ không đến từ sự chồng chất các sự kiện, cho dù thú vị đến đâu…”. Nhưng dù sao, “việc nhờ Internet mà con người nhân rộng được các mối tiếp xúc xưa nay chưa ai nghĩ tới đã mở ra những tiềm năng kỳ diệu cho việc truyền bá Tin Mừng”.

Tất cả các Thông điệp về Truyền giáo từ Đức Bênêđictô XV tới Đức Piô XI và Piô XII đều đã vạch ra nhu cầu sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại, đặc biệt là báo chí, cho việc rao giảng Tin Mừng. Điều này cũng được Đức Gioan Phaolô II vạch ra trong Thông điệp Redemptoris Missio khi ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của máy in và các phương tiện nghe nhìn, đặc biệt cho việc sinh động hoá truyền giáo (số 83). Nhưng ngài còn đi xa hơn các lời nhắc nhở và đề xuất này khi ngài nhấn mạnh về các phương tiện truyền thông hiện đại và thế giới truyền thông Xã hội như là ‘areopagus’ hàng đầu, nghị trường hàng đầu của thời đại chúng ta. Một văn hoá mới đã được tạo ra, nó ngày càng định đoạt nếp sống của con người. Nhưng ngài nói: “Tuy nhiên, tham gia các phương tiện truyền thông đại chúng không chỉ có nghĩa là làm tăng sức mạnh của việc loan báo Tin Mừng. Còn có một thực tại sâu hơn: vì chính việc Tin Mừng hoá nền văn hoá hiện đại lệ thuộc một phần lớn vào ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông, nên việc sử dụng các phương tiện này chỉ để truyền bá thông điệp Tin Mừng và giáo huấn chân chính của Hội Thánh mà thôi thì không đủ. Còn phải tích hợp thông điệp ấy vào ‘nền văn hoá mới’ do truyền thông hiện đại tạo ra. Đây là một vấn đề phức tạp, vì ‘văn hoá mới’ phát sinh không phải chỉ từ bất cứ nội dung nào được diễn tả ra, mà còn từ chính sự kiện có những cách thức truyền thông mới, với các ngôn ngữ mới, các kỹ thuật mới và một tâm lý mới…” (số 37c).

III. TRUYỀN THÔNG TRUYỀN GIÁO TRONG ÁNH SÁNG ECCLESIA IN ASIA

Dưới đây là một suy tư đặc biệt và một ví dụ tiêu biểu về cách nhìn Truyền thông Truyền giáo trong ánh sáng của một văn kiện đặc trưng ‘Ecclesia in Asia’ tiếp theo sau một trong các Thượng Hội Đồng cấp châu lục tại Rôma để chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000 và bước sang thế kỷ mới.

Loan báo Tin Mừng (hay Truyền giáo) có nghĩa là truyền thông. Loan báo Tin Mừng là chia sẻ các kinh nghiệm đức tin với người khác. Evangelii Nuntiandi (EN) nói đó là truyền thông “Tin Mừng vào mọi giai tầng của nhân loại và nhờ ảnh hưởng của nó mà biến đổi nhân loại từ bên trong, đổi mới nhân loại” (số 18). Việc truyền thông Tin Mừng này đã xảy ra trong giai đoạn đầu tiên qua việc làm chứng bằng đời sống như “một hành vi loan báo Tin Mừng đầu tiên” (số 21). Nhưng cũng cần phải truyền thông công khai về Chúa Giêsu Kitô:

“Không có loan báo Tin Mừng đích thực nếu không có sự truyền thông về tên, lời dạy, cuộc đời, các lời hứa, nước và mầu nhiệm của Đức Giêsu Nazareth, Con Thiên Chúa!” (EN số 22).

Truyền thông Truyền giáo bắt đầu với việc hiểu biết tình hình của con người, các kỳ vọng của họ, các tâm trạng và hoàn cảnh sống của họ, là nơi mà thông điệp phải được truyền thông và chia sẻ. Chỉ từ chỗ này chúng ta mới có thể bắt đầu quyết định phải chọn và sử dụng các phương tiện và phương pháp nào.

3.1. Tình hình

Trong tình hình của Châu Á, Thượng Hội Đồng đặc biệt tại Rôma (1998) cũng như văn kiện chung cuộc của Thượng Hội Đồng này, Tông huấn Ecclesia in Asia, đã đối diện với các thách thức này và trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến hoạt động truyền thông truyền giáo.

1. Khi mô tả “các thực tại kinh tế và xã hội” của Châu Á, Ecclesia in Asia phàn nàn về ảnh hưởng tiêu cực của các phương tiện truyền thông đại chúng và cả về “cách thức chúng bị kiểm soát và sử dụng bởi những người có những quan tâm chính trị, kinh tế và ý thức hệ đáng nghi ngờ”. Các phương tiện truyền thông này được coi là “đe dọa các giá trị truyền thống, đặc biệt sự bền vững của gia đình. Hậu quả của các hình ảnh bạo lực, chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa cá nhân buông thả và chủ nghĩa duy vật ‘đang đánh vào giữa lòng của các nền văn hoá Á Châu, đánh vào tính chất tôn giáo của các dân tộc, các gia đình và toàn thể xã hội’ (Thượng Hội Đồng Châu Á: Instrumentum Laboris IL, số 9). Tình hình này đặt ra một thách thức lớn cho Hội Thánh và cho việc loan báo thông điệp của Hội Thánh” (số 7).

Ở phần sau, Ecclesia in Asia một lần nữa nhắc đến “tính xâm nhập của các phương tiện đại chúng” như là một trong các “hình thức khai thác và thao túng bỉ ổi” làm cho người ta dễ trở thành nô lệ cho những kẻ cường quyền” (số 39).

Chúng ta không thể trốn tránh thực tại này! Trong tư cách Hội Thánh, chúng ta phải đối diện những thách thức này thế nào và việc rao giảng của chúng ta phải như thế nào trong một tình hình như thế? Làm thế nào chúng ta có thể một cách nào đó phản ứng và đáp ứng cụ thể? Hội Thánh phải:

* Củng cố các giá trị truyền thống, đặc biệt sự bền vững của gia đình với nhiều sự chăm sóc cá nhân hơn, nhiều trí tưởng tượng và sáng tạo hơn, tuỳ theo các hoàn cảnh và khả năng địa phương. Để làm điều này, cần có những người giàu sáng tạo, các linh mục, tu sĩ và giáo dân không chỉ là những người quản lý và kế toán, mà là những người có thiện chí ‘lắng nghe’ và cũng có sự dũng cảm để ‘thử những vùng nước mới’. Một cách đặc biệt, họ phải nghe và hiểu ngôn ngữ, tình cảm và nhu cầu của tuổi trẻ, là những người sinh ra giữa nền ‘văn hoá’ truyền thông và lớn lên với con chuột máy tính.

* Tương tự, phải nghe thấy tiếng kêu của người nghèo, hoạt động cho công lý và hoà bình, và giúp bảo tồn sự toàn vẹn của tạo dựng. “Không có hoà bình nếu không có công lý, và không có công lý nếu không có tha thứ”, ĐGH Gioan Phaolô II nói trong thông điệp Angelus Đầu Năm Mới 2002. “Cùng nhau chúng ta phải kiên cường chống lại cám dỗ của lòng căm thù và bạo lực, nó chỉ tạo ra ảo tưởng giải quyết các xung đột nhưng thực chất nó gây ra những thiệt hại thực sự và lâu dài. Ngược lại, lòng tha thứ xem ra có vẻ là yếu đuối, nhưng đòi hỏi sức mạnh tinh thần to lớn và bảo đảm những lợi ích lâu dài”.

2. Châu Á cũng không thể trốn tránh tiến trình toàn cầu hoá, được cổ xuý qua các phương tiện và kỹ thuật truyền thông hiện đại. Động năng của toàn cầu hoá đang “nhanh chóng lôi kéo các xã hội Châu Á vào một nền văn hoá tiêu thụ toàn cầu vừa duy thế tục vừa duy vật, “dễ dàng làm xói mòn các giá trị truyền thống gia đình và xã hội mà cho đến nay đã giữ vững loài người và xã hội…” (số 39). Nhưng đồng thời Ecclesia in Asia nhấn mạnh nhu cầu “toàn cầu hoá nhưng không phân hoá giàu nghèo” (globalization without marginalization). Trong một tình hình như thế:

“Đối thoại giữa các nền văn hoá đặc biệt cần thiết hôm nay vì ảnh hưởng của kỹ thuật truyền thông mới đối với cuộc sống của các cá nhân và các dân tộc. Thời đại chúng ta là một thời đại truyền thông toàn cầu, nó đang hình thành xã hội theo con đường của các mẫu văn hoá mới ít nhiều cắt đứt với các mẫu cũ. Ít là trên nguyên tắc, bất cứ ai ở bất cứ đâu trên thế giới đều có thể tiếp cận các thông tin chính xác và cập nhật. Sự lưu hành tự do các hình ảnh và lời nói trên qui mô toàn cầu đang biến đổi không chỉ các mối quan hệ chính trị và kinh tế giữa các dân tộc, mà thậm chí cả sự hiểu biết của chúng ta về thế giới. Nó mở ra hàng loạt những tiềm năng xưa nay chưa từng được nghĩ tới, nhưng nó cũng mang một số khía cạnh tiêu cực và nguy hiểm…” (Thông điệp của Đức Gioan Phaolô II cho Ngày Thế giới Hoà bình 2001, số 11).

Sự “đối thoại giữa các nền văn hoá” như thế là một phần của sự đối thoại ba chiều đã được cổ vũ từ nhiều năm bởi “Liên Hội đồng Giám mục Châu Á” (FABC) cùng với “đối thoại với các tôn giáo” và “đối thoại với người nghèo”. Thực vậy, song song với việc củng cố các giá trị truyền thống, cũng phải có sự cởi mở trước các phát triển và các giá trị mới, tích cực cũng như tiêu cực, của các nền văn hoá toàn cầu khác. Chúng ta không còn có thể sống cô lập nhưng phải cởi mở để hiểu biết và chấp nhận những người khác mà không đánh mất bản sắc của mình. Ecclesia in Asia cho thấy hướng đi này khi nói:

“Cách tốt nhất để phát hiện và khẳng định bản sắc Châu Á không phải là sự đối đầu và đối kháng, mà là trong tinh thần hòa hợp và bổ sung cho nhau. Trong khung cảnh này… Hội Thánh có thể truyền thông Tin Mừng sao cho vừa trung thành với truyền thống riêng của mình vừa hợp với tâm hồn người Châu Á” (số 6).

Thực tại truyền thông ở Châu Á không chỉ mang tính đe doạ nhưng cũng thách thức và là một cơ hội lớn cho hoạt động loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.

3. Trong một đoạn đặc biệt về truyền thông xã hội, Ecclesia in Asia (số 48) trở về lại với góc nhìn về truyền thông xã hội của Thông điệp Redemptoris Missio về Truyền giáo (1990), ở đó các phương tiện truyền thông được gọi là “Areopagus”, nghị trường (hay nơi họp chợ) hàng đầu của thời đại mới. Chúng “đã trở thành quá quan trọng đến nỗi nhiều người coi chúng là những phương tiện chính của thông tin và giáo dục, của hướng dẫn và soi sáng trong cách ứng xử của các cá nhân, gia đình và xã hội. Cách riêng thế hệ trẻ đang lớn lên trong một thế giới bị chi phối bởi các phương tiện đại chúng. Từ chỗ này, Ecclesia in Asia kết luận: “Vai trò phi thường của các phương tiện truyền thông xã hội trong việc hình thành thế giới cũng như các nền văn hoá và các lối suy nghĩ của thế giới, đã dẫn tới những thay đổi mau lẹ và sâu rộng trong các xã hội Châu Á” (số 48). Chúng tạo nên một ‘văn hoá mới’ được nhận thấy rõ ràng ở Châu Á ngày nay, và điều này dẫn đến một khía cạnh quan trọng khác nữa lĩnh vực truyền thông truyền giáo. (Xem Phần III, 5 dưới đây).

3.2. Các phương thức truyền thông truyền giáo

Việc rao giảng Tin Mừng không thể thực hiện mà không có các phương tiện truyền thông xã hội hiện đại. Ngay từ Thông điệp Evangelii Nuntiandi (1975), ĐGH Phaolô II đã tuyên bố: “Hội Thánh sẽ cảm thấy có lỗi trước mặt Thiên Chúa nếu không vận dụng các phương tiện mạnh mẽ này mà tài năng con người không ngừng làm cho phát triển và hoàn thiện mỗi ngày” (số 45).

Ecclesia in Asia đưa yếu tố này vào trong viễn tượng loan báo Tin Mừng với lời tuyên bố: “Vì các phương tiện đại chúng ngày càng có ảnh hưởng lớn cả ở các vùng xa xôi ở Châu Á, chúng có thể trợ giúp rất nhiều cho việc loan báo Tin Mừng tới mọi góc cùng của châu lục” (số 48).

Việc này không đơn giản, nhưng đòi phải có các phương thức “tích hợp triệt để các phương tiện đại chúng vào trong kế hoạch và hoạt động mục vụ, để nhờ sử dụng chúng một cách hiệu quả, sức mạnh của Tin Mừng có thể vươn ra xa hơn nữa tới mọi cá nhân và mọi dân tộc, và truyền vào các nền văn hoá Á Châu những giá trị của Nước Chúa” (số 48). Tại nhiều nơi, các hoạt động tông đồ vẫn còn được thực hiện một cách riêng lẻ và không được tích hợp đủ vào các hoạt động khác của Hội Thánh như tông đồ Kinh Thánh, huấn giáo và giáo dục.

Các chi tiết khác nữa trong Ecclesia in Asia về rao giảng Tin Mừng vạch ra một số hướng dẫn, tuy rằng các hướng dẫn này chủ yếu liên quan tới việc truyền thông đối nội trong Hội Thánh và việc cải thiện tổ chức hoạt động này. Các hướng dẫn này là:

* “Bao có thể”, mỗi giáo phận phải có “một văn phòng về truyền thông và về phương tiện truyền thông”. Điều này đã được nêu lên bởi Sắc lệnh Inter Mirifica (số 20) của Vatican II và được đòi hỏi bởi Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (các số 168tt).

* Giáo dục truyền thông phải trở thành một phần ngày càng quan trọng của việc đào luyện các linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên, các chuyên viên giáo dân, các học sinh trong các trường Công Giáo và các cộng đoàn giáo xứ”. Việc giáo dục truyền thông này chủ yếu không phải là việc sử dụng các phương tiện truyền thông để giáo dục cho bằng giáo dục cách sử dụng các phương tiện truyền thông “gồm việc đánh giá có phê phán các hiệu quả của các phương tiện được sử dụng”. Tại một số quốc gia, môn học này cũng gọi là “Văn hoá Truyền thông”, nó giúp chúng ta ‘đọc’ và nhận thức một cách có phê phán và có trách nhiệm các thông điệp truyền thông. Đôi khi chúng ta chỉ là những khán giả ‘mù’, những người tiêu thụ mù quáng các phương tiện truyền thông, hay như tờ “The Straits Times” của Singapore gần đây có viết về tuổi trẻ ở Hàn Quốc trên Internet “trở thành những con ma sống” trong cơn nghiện ‘game vi tính’.

* “Vì ảnh hưởng sâu rộng và ghê gớm của các phương tiện truyền thông đại chúng”,
 cần có sự hợp tác đại kết và liên tôn để “bảo đảm có một chỗ cho các giá trị thiêng liêng và đạo đức trong các phương tiện truyền thông”.

* Cổ vũ việc triển khai các kế hoạch mục vụ truyền thông “ở cấp giáo phận và quốc gia” theo ước muốn của Huấn thị Mục vụ Aetatis Novae. Tuy nhiên các kế hoạch này phải “lưu ý thích đáng tới các hoàn cảnh đang phổ biến ở Châu Á”.

* Một điển hình rất cụ thể và hiệu quả về truyền thông truyền giáo cho Hội Thánh tại Châu Á là ‘Đài Chân Lý Á Châu’ (RVARadio Veritas Asia). Trong khi một số chương trình bằng 17 thứ tiếng Á Châu được phát sóng chủ yếu để sử dụng trong nội bộ Hội Thánh, như Chương Trình tiếng Quan Thoại dành cho Hội Thánh ‘ngầm’ tại Trung Hoa, hầu hết các chương trình được phát sóng cho những người ngoài Hội Thánh. Chẳng hạn, khoảng 90% thính giả trong 5 ngôn ngữ của tiểu lục địa Ấn Độ (Hinđi, Tamil, Telugu, Bengali, Urđu) là người Hindu và Hồi giáo. Họ đánh giá cao các chương trình, như có thể thấy và cảm nghiệm được tại các cuộc gặp gỡ thường xuyên ở các vùng phát sóng. Tông huấn Ecclesia in Asia có lý khi giới thiệu “Radio Veritas Asia” như là “đài phát thanh châu lục duy nhất cho Hội Thánh tại Châu Á”, và yêu cầu “phải có các cố gắng để gia tăng sức mạnh của công cụ truyền giáo tuyệt vời này, qua các chương trình bằng ngôn ngữ thích hợp, trợ giúp nhân sự và tài chánh từ các HĐGM và các giáo phận tại Châu Á” (số 48; cũng xem Phần III, 6.2.2 ở dưới).

Vì “Liên Hội đồng Giám mục Châu Á” (FABC) chịu trách nhiệm điều hành và tài trợ cho RVA, nên mọi HĐGM đều có một nghĩa vụ đặc biệt, kể cả những HĐGM không trực tiếp được phục vụ bởi một chương trình ngôn ngữ hiện có nào.

“Ban Chương trình Ngôn ngữ” tại các vùng phát sóng khác nhau đặc biệt cố gắng lôi kéo các giám mục địa phương và những người khác đóng góp một cách đặc biệt vào việc lập chương trình, sản xuất, đào tạo và tài trợ cho mỗi chương trình ngôn ngữ. Tại Đại hội Toàn thể của FABC ở Bandung 1990, các chủ tịch của các HĐGM thành viên đã ký một thỏa ước gánh vác hoàn toàn các chi phí trong 5 năm của tất cả các chương trình phát thanh của RVA được thực hiện tại các trung tâm sản xuất của quốc gia họ. Tiếc rằng thỏa thuận này đã không bao giờ được thực hiện đầy đủ.

3.3. Các thái độ đối với truyền thông truyền giáo

Tài năng không phải là vấn đề đầu tiên và trên hết để sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông hiện đại để đến được với đại đa số dân Châu Á không phải là thành viên của Hội Thánh. Vấn đề quan trọng hơn là phải có một số thái độ và khía cạnh thích hợp. Việc loan báo Tin Mừng đích thực bắt đầu với sự ‘hoán cải’ trong Hội Thánh, nhưng sự hoán cải này cũng phải được đem chia sẻ với ‘người ngoài’. Vấn đề không phải chỉ là xây dựng và sử dụng các phương tiện kỹ thuật như các phương tiện đại chúng, nhưng phải bắt đầu với những yếu tố cơ bản của việc truyền thông nhân bản và Kitô giáo.

1. Chứng tá đời sống là đòi hỏi đầu tiên cho việc truyền thông truyền giáo tại Châu Á. Đặc biệt ở điểm này, các lời của ĐGH Phaolô VI trong Evangelii Nuntiandi (số 41; cũng xem số 21.76) phải được áp dụng:

“Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy, và nếu họ nghe các thầy dạy, thì chính là vì các người này cũng là các chứng nhân. Thánh Phêrô đã diễn tả rất hay điều này khi ngài nêu lên gương sáng của một nếp sống đáng kính và trong sạch dù không dùng lời nói mà vẫn chinh phục được những người không muốn vâng nghe Lời (x. 1 Pr 3,1). Vì thế, Hội Thánh phải loan báo Tin Mừng cho thế giới chủ yếu nhờ hạnh kiểm và đời sống của mình. Nói khác đi, Hội Thánh truyền thông nhờ chứng tá sống động về lòng trung thành với Chúa Giêsu – chứng tá về sự nghèo khó và từ bỏ, về tự do đối với các quyền lực của trần gian này, nói tóm, chứng tá về sự thánh thiện”.

Một mẫu gương gần đây nữa cho Châu Á là Mẹ Têrêsa Calcutta. Bà đã loan báo Tin Mừng một cách đơn sơ bằng đời sống của bà. Đối với việc truyền thông Kitô giáo, điều này có nghĩa là chúng ta không được chỉ quan tâm tới kỹ thuật. Tâm trạng và thái độ truyền thông nhân bản của chúng ta phải dựa trên một kinh nghiệm thiêng liêng sâu xa. Theo mô tả về truyền thông trong Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (số 11), tinh thần truyền thông sâu xa nhất của chúng ta phải là “hiến mình trong tình yêu”.

Chứng tá đời sống như thế thường cũng dẫn tới sự ‘tiếp xúc cá nhân’ như là một phương tiện cơ bản để truyền thông truyền giáo. “Toàn thể sách Công vụ Tông Đồ, được coi là cuốn sách đầu tiên viết về Hội Thánh truyền thông thời kỳ đầu, đã tường thuật và làm chứng rằng đức tin đã lan đi khắp thế giới vào thời đó nhờ chứng tá và sự tiếp xúc cá nhân như là phương tiện chính của việc rao giảng Tin Mừng. Dù không có các phương tiện truyền thông đại chúng, thế giới của thời ấy đã được Tin Mừng hoá trong một thời gian ngắn và phát triển vượt ra khỏi cộng đồng Do Thái để đến Hy Lạp và Rôma và tới tận Tây Ban Nha. Nhiều đoạn trong sách Công vụ Tông đồ là những bài tường thuật và ví dụ về việc truyền thông truyền giáo. Và ĐGH Phaolô VI cũng nhắc nhở chúng ta trong Evangelii Nuntiandi (1975) rằng chính Chúa đã sử dụng cách truyền thông này và vì vậy “không thể để xảy ra tình trạng các nhu cầu cấp bách loan báo Tin Mừng cho muôn dân làm chúng ta quên mất hình thức loan báo này mà nhờ đó một lời hoàn toàn độc đáo từ một người khác đến được và chạm được vào lương tâm của một cá nhân” (số 46).

Các gương điển hình về chứng tá và tiếp xúc cá nhân như thế bao gồm những biểu hiện cụ thể của thái độ đại kết và hợp tác với các tôn giáo khác vì hoà bình và công ích. Lời nói không ‘nói’ được bao nhiêu, nhưng việc làm ‘nói’ lên rất nhiều!

2. Truyền thông truyền giáo còn phải được hỗ trợ bởi hình ảnh tập đoàn của Hội Thánh như một tổ chức nhưng cũng còn nhờ hình ảnh công cộng của một cộng đoàn đức tin duy nhất và các thành viên cộng đoàn. Chính Communio et Progressio đã đề nghị áp dụng các nguyên tắc về Quan hệ công cộng cho việc này và Aetatis Novae đòi hỏi việc lập kế hoạch mục vụ phải có nó (số 31). Đối với các người truyền thông truyền giáo, nó có nghĩa là “lưu ý đến loại công chúng mà họ có dịp ngỏ lời vào mỗi lúc khác nhau, đồng thời thiết lập mối quan hệ dựa trên sự tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau”. Nhưng “việc này chỉ có thể thực hiện nếu người ta có sự tôn trọng và quí chuộng lẫn nhau và hết sức tôn trọng sự thật” (C&P, số 174).

Điều này có nghĩa là không chỉ áp dụng các nguyên tắc về quan hệ công cộng hay truyền thông kinh doanh. Cuối cùng nó lại dẫn tới ‘chứng tá đời sống’ như là điều kiện đầu tiên bởi vì các quan hệ công cộng có nghĩa là: ‘Làm điều tốt và nói về nó’. Điều này trở nên rất cụ thể ở Châu Á, khi Ecclesia in Asia nhắc nhở chúng ta:

“Tại Châu Á, quê hương của các tôn giáo lớn trong đó các cá nhân và toàn thể các dân tộc khao khát Thượng Đế, Hội Thánh được kêu gọi để là một Hội Thánh cầu nguyện, có bản chất thiêng liêng sâu xa cả khi dấn mình vào các mối quan tâm nhân bản và xã hội. Mọi Kitô hữu cần có một linh đạo cầu nguyện và chiêm niệm. Một con người tôn giáo chân chính dễ dàng chinh phục được lòng tôn trọng và có người theo tại Châu Á…” (số 23).

Trong tư cách cá nhân và cộng đoàn, chúng ta thực sự là những “con người tôn giáo chân chính” tới mức nào để trở thành nền tảng cho các mối “Quan hệ Công cộng” tốt?

3. Truyền thông truyền giáo tại Châu Á còn dựa trên hội nhập văn hoá. Các lối suy nghĩ, các giá trị và các phương tiện truyền thông, các cách thức và cơ cấu của các nền văn hoá Châu Á phải là cơ sở và bối cảnh cho mọi việc truyền thông Kitô giáo. Chẳng hạn, phải áp dụng các “phương pháp kể truyện gần gũi với các loại hình văn hoá Á Châu” bởi vì “việc rao giảng Đức Giêsu Kitô có thể hiệu quả nhất bằng việc kể lại câu chuyện về Người như các sách Tin Mừng đã làm” (số 20). Cùng với điều này, Hội Thánh và các người rao giảng Tin Mừng “phải cởi mở với các cách thức mới mẻ và lạ lùng qua đó khuôn mặt Đức Giêsu có thể được trình bày tại Châu Á”.

Đây là một cách thức đặc biệt quan trọng đối với giai đoạn khởi đầu của việc rao giảng Tin Mừng như các nhà truyền giáo lớn của Châu Á như Gioavanni Montecorvino, Matteo Ricci và Robert de Nobili đã nêu gương khi các ngài có “cái nhìn trực giác sâu sắc vào các dân tộc và các nền văn hoá của họ” (EA, số 20). Các ngài đã nêu những tấm gương sáng chói về lòng kính trọng nhưng các ngài cũng sáp nhập các nền văn hoá địa phương vào sứ mạng Kitô giáo của các ngài. Các ngài đã đặt nền cho một đường lối tích cực để đi vào Kitô giáo, nhưng tiếc thay đường lối ấy đã bị phá huỷ phần nào do sự thiển cận của một số lãnh đạo Hội Thánh vào thời đó.

Theo một nghĩa rộng hơn, chúng ta cũng có thể thấy một thái độ tương tự trong việc ‘hội nhập văn hoá’ các phương tiện truyền thông hiện đại vào sứ vụ của chúng ta, như ĐGH Gioan Phaolô II đã nói trong thông điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông 2002 về “Internet: Một Diễn Đàn Mới cho việc Loan Báo Tin Mừng”:

“Internet có thể cống hiến những cơ hội tuyệt vời cho việc loan báo Tin Mừng nếu được sử dụng một cách thành thạo và ý thức rõ ràng được những điểm mạnh và điểm yếu của nó. Trên hết, nhờ cung cấp thông tin và khơi dậy sự thích thú, nó làm cho có thể có một cuộc gặp gỡ ban đầu với thông điệp Kitô giáo, đặc biệt giữa giới trẻ là những người ngày càng quay sang thế giới của không gian mạng như một cánh cửa sổ mở ra thế giới. Vì vậy điều quan trọng là Cộng Đoàn Kitô giáo phải nghĩ ra những cách rất thực tế để giúp những người tiếp xúc lần đầu với Internet để họ chuyển từ thế giới ảo của không gian mạng sang thế giới thực của cộng đoàn Kitô giáo”.

Nhưng trong giai đoạn thứ hai của việc loan báo Tin Mừng, là giai đoạn chuyên về giảng dạy đức tin trong huấn giáo và hướng dẫn tôn giáo, việc truyền thông trong rao giảng Tin Mừng cũng đòi hỏi một phương thức hội nhập văn hoá. Ecclesia in Asia nhắc nhớ chúng ta phải sử dụng thích nghi “một khoa sư phạm khêu gợi, dùng các câu truyện, các ẩn dụ và các biểu tượng, là những nét rất đặc trưng trong phương pháp luận sư phạm của Châu Á”.

Nhu cầu hội nhập văn hoá cũng được đòi hỏi bởi nguyên tắc truyền thông cơ bản là trân trọng người tiếp nhận và gặp gỡ họ trong thực tế đời sống của họ. Vì vậy truyền thông truyền giáo tại Châu Á phải “quan tâm tới hoàn cảnh của người nghe” và phải “thích nghi với mức trưởng thành của người nghe và dùng hình thức và ngôn ngữ thích hợp… để rao giảng Tin Mừng sao cho nó cuốn hút được khả năng nhạy cảm của các dân tộc Châu Á”. Các hình ảnh về Chúa Giêsu phải được trình bày sao cho “dễ hiểu đối với trí khôn và văn hoá của người Châu Á” (số 20).

4. Truyền thông truyền giáo tại Châu Á đặt nền sâu xa trên linh đạo. Các chuyến thăm của Đức Gioan Phaolô II tới Châu Á đã xác nhận quan điểm của ngài “rằng tương lai của việc truyền giáo lệ thuộc một phần rất lớn vào chiêm niệm. Trừ khi người truyền giáo là một con người chiêm niệm, họ không thể loan báo Đức Kitô một cách đáng tin” (EA số 23; x. RM, số 91).

Đây cũng phải là cơ sở cho mọi việc truyền thông truyền giáo và cho mọi người truyền thông Kitô giáo tại Châu Á. Suy cho cùng, việc truyền thông truyền giáo của chúng ta cơ bản là chia sẻ kinh nghiệm. Truyền giáo, cũng như truyền thông truyền giáo, là “hoạt động trong chiêm niệm và chiêm niệm trong hoạt động… Một người truyền giáo mà không có kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa trong kinh nguyện và chiêm niệm thì sẽ có rất ít ảnh hưởng thiêng liêng hay thành công truyền giáo”, ĐGH Gioan Phaolô II viết trong Ecclesia in Asia (số 23). Cũng đúng như thế đối với mọi người truyền thông Kitô giáo. Truyền thông và rao giảng ở Châu Á cần “những con người thánh thiện dùng đời sống mình để làm cho người khác biết và yêu mến Chúa Cứu Thế. Lửa chỉ có thể được đốt lên bởi một cái gì tự nó đã cháy…”. Chương cuối của Thông điệp về truyền giáo Redemptoris Missio của Đức Gioan Phaolô II bàn đặc biệt về một linh đạo bắt đầu với lòng dễ dạy đối với Chúa Thánh Thần (các số 87-91).

Đi theo mẫu truyền thông Kitô giáo, ở đây cũng vậy, chính Thiên Chúa là người nói, còn sứ giả chỉ là người phục vụ thông điệp của Người. Họ càng biết lắng nghe và tràn đầy thông điệp, họ càng thể hiện tốt sứ mạng sứ giả của họ. Đây là thách thức của một linh đạo sâu xa, là điều kiện tiên quyết cho mọi việc truyền thông truyền giáo và Kitô giáo.

5. Đoạn đặc biệt về truyền thông xã hội trong Ecclesia in Asia (số 48) nhắc đến niềm tin của ĐGH Gioan Phaolô II rằng truyền thông xã hội hiện đại là một ‘areopagus’, nghị trường hay nơi họp chợ tạo ra một “văn hoá mới”. Hội Thánh và các cơ chế được nhìn nhận lâu đời như gia đình không còn quyết định các giá trị và các lối sống nữa, đặc biệt đối với giới trẻ. Chính cái “areopagus” này của truyền thông hiện đại ngày càng quyết định cuộc sống và các giá trị của con người.

Truyền thông truyền giáo phải ý thức rằng truyền thông hiện đại tạo ra một ‘văn hoá mới’, “phát sinh không phải từ bất cứ nội dung nào đã được diễn tả ra, nhưng từ chính sự kiện là có những cách thức truyền thông mới, với những ngôn ngữ mới, kỹ thuật mới và một tâm lý mới” (RM, số 37c). Nếu truyền thông truyền giáo không nghiên cứu nghiêm túc các điều kiện mới này, kết cục nó sẽ không có thể thực sự truyền thông và đóng một vai trò trong nghị trường của cuộc sống hiện đại.

Có một số câu hỏi đầy thách thức mà chúng ta phải trả lời: Chúng ta nghiên cứu nghiêm túc tới mức nào các cách thức mới, các ngôn ngữ mới, các kỹ thuật mới và tâm lý mới này? Trong tư cách cá nhân và cộng đoàn, chúng ta có ý thức về các thực tại như thế trong đời sống chúng ta không? Các trường đại học Công giáo và các học viện cao cấp có học các môn ấy không hay chúng (và chúng ta) chỉ biết ngưỡng mộ và sử dụng các kỹ thuật mới mà không có óc phê phán và đào sâu hơn?

Thái độ chúng ta đối với tất cả điều này có những hậu quả quan trọng đối với việc truyền giáo! Nếu chúng ta không muốn chỉ là một thành phần nhưng cũng muốn ảnh hưởng và hình thành “văn hoá mới’ này, chúng ta phải đi tiên phong trong việc nghiên cứu và học hỏi. Redemptoris Missio nói “sẽ không đủ nếu chỉ đơn thuần sử dụng các phương tiện truyền thông để truyền bá thông điệp Kitô giáo và giáo huấn chân chính của Hội Thánh”.

Cho tới nay, có lẽ quan tâm chính của chúng ta mới chỉ là sử dụng các phương tiện truyền thông. Nhưng trong thế giới hôm nay, các phương tiện này không chỉ đơn thuần là những dụng cụ mới và hiện đại của việc truyền thông xã hội…! Chúng hình thành thế giới chúng ta và không chỉ ở các vùng thành thị mà ngày càng gia tăng ảnh hưởng cả ở các vùng nông thôn nữa. Tại vùng nông thôn Tamil Nadu (Ấn Độ), người ta có thể thấy, ví dụ, những cụm nhỏ từ 5 tới 8 căn nhà gỗ có gắn các chảo vệ tinh trên mái nhà. Sự có mặt khắp nơi ngày càng gia tăng của các phương tiện truyền thông mới chính là lý do tại sao một số nhà trí thức Công giáo tại một “hội nghị bàn tròn” do Văn phòng Truyền thông Xã hội của FABC tổ chức tại Đại học Assumption ở Bangkok năm 1999 đã đề nghị một “Lịch trình Nghiên cứu về Giáo hội/Tôn giáo và Truyền thông Xã hội tại Châu Á”. Đề nghị này bao gồm một “Trung tâm Nghiên cứu Châu Á về Tôn giáo và Truyền thông” (ARC=Asian Research Center), được thành lập cùng năm ấy tại Đại học Thánh Gioan, Bangkok. Tiếc rằng cho đến nay chúng ta vẫn còn thiếu các nhà trí thức Kitô giáo dấn thân và có trình độ để đi sâu hơn vào tình hình truyền thông tại Châu Á và tầm quan trọng của truyền thông đối với tôn giáo hay của tôn giáo đối với truyền thông xã hội trong các nền văn hoá của chúng ta.

Đức Giáo Hoàng đã đề cập đến vấn đề này một cách chi tiết trong thông điệp của ngài cho Ngày Thế giới Truyền thông năm 2002 về “Internet: Một Diễn đàn Mới cho việc Loan báo Tin Mừng”. Thay vì nói đến ‘Areopagus’ của Hy Lạp thời xưa như trong Redemptoris Missio, ngài nói đến “Forum” của Rôma như là “địa điểm công cộng nơi diễn ra các giao dịch thương mại và chính trị, nơi thực hành các bổn phận tôn giáo, nơi diễn ra phần lớn đời sống xã hội của thành phố, và nơi phô bày bản chất tốt nhất cũng như xấu nhất của con người”, và ngài so sánh nó với Internet ngày nay.

Sau đó ngài kết luận rằng “đối với Hội Thánh, thế giới mới của không gian mạng là một lời kêu gọi đi vào cuộc mạo hiểm vĩ đại của việc sử dụng các tiềm năng của nó để loan báo thông điệp Tin Mừng. Thách thức này nằm ở tâm điểm của việc thực thi vào đầu thiên niên kỷ này lệnh truyền của Chúa: ‘Ra chỗ sâu mà thả lưới’ (Lc 5,4)”. Nhưng chúng ta cũng được nhắc nhở rằng chỉ chồng chất các thông tin và các khả năng mới cho các giao tiếp của con người thì không đủ để thay thế cho “sự tiếp xúc cá nhân trực tiếp mà việc loan báo Tin Mừng đích thực đòi hỏi. Vì rao giảng Tin Mừng luôn luôn lệ thuộc vào chứng tá bản thân của người được sai đi rao giảng (x. Rm 10,14-15)”.

Đối với Châu Á cũng thế, thách thức của việc truyền thông truyền giáo là: “Làm thế nào để từ những mối tiếp xúc được cung cấp bởi Internet, Hội Thánh dẫn đến sự truyền thông sâu hơn do việc loan báo của Kitô giáo đòi hỏi? Chúng ta xây dựng thế nào từ sự tiếp xúc và trao đổi thông tin đầu tiên mà Internet cung cấp?” (Thông điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông 2002).

6. Tất cả các điều trên dẫn chúng ta tới nhu cầu phải có một sự đào luyện thích hợp các người truyền thông truyền giáo, những người cần có cái gì đó nhiều hơn là những khả năng kỹ thuật. Bất chấp mọi thực tế kỹ thuật từ Phương Tây đem đến, chúng ta vẫn phải tích hợp mọi việc đào tạo và huấn luyện truyền thông vào với các điều kiện và hoàn cảnh ở Châu Á, như Ecclesia in Asia (số 23) đòi hỏi nơi những người loan báo Tin Mừng:

“Trong quá khứ, việc huấn luyện thường đi theo lề lối, phương pháp và chương trình du nhập từ Phương Tây. Trong khi đánh giá cao việc phục vụ mà cách đào luyện ấy đã cống hiến, các Nghị phụ của Thượng Hội Đồng nhìn nhận những cố gắng tích cực đã được phát triển thời gian gần đây để thích nghi việc đào luyện các người loan báo Tin Mừng với các bối cảnh văn hoá của Châu Á…”.

Nói một cách cụ thể, điều này cũng có nghĩa là cần nhấn mạnh hơn về việc đào tạo những người truyền thông truyền giáo tại chính Châu Á thay vì gửi họ đến các châu lục và các nền văn hoá khác để học tập ở ngoài môi trường sinh sống của họ. Ecclesia in Asia không chỉ nhấn mạnh bổn phận của các giám mục, linh mục, chủng sinh và tu sĩ, mà cả vai trò của giáo dân:

“Hơn ai hết, chính họ là những người được kêu gọi để biến đổi xã hội… bằng việc truyền ‘tinh thần của Đức Kitô’ vào trong não trạng, phong tục, luật pháp và các cơ cấu của thế giới trần tục mà họ đang sống. Một sự hội nhập Tin Mừng một cách sâu rộng hơn ở mọi tầng lớp xã hội tại Châu Á sẽ tuỳ thuộc rất nhiều vào việc đào luyện thích hợp mà Hội Thánh cống hiến được cho giáo dân”.

Ngoài việc làm chứng bằng đời sống, tất cả những ai có liên quan tới sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh phải có một sự hiểu biết cơ bản về truyền thông xã hội, nếu họ muốn là một thành phần của một Hội Thánh loan báo Tin Mừng. Ngay từ thời Công đồng Vatican II, các Nghị phụ đã đòi hỏi trong Sắc lệnh Inter Mirifica rằng “mọi thành viên của Hội Thánh phải đồng tâm hiệp lực cố gắng để bảo đảm rằng các phương tiện truyền thông được sử dụng để phục vụ rất nhiều loại hoạt động tông đồ khác nhau một cách mau chóng và hăng say bao có thể, ở những nơi và những lúc có nhu cầu… Các vị chủ chăn các linh hồn phải đặc biệt nhiệt thành trong lĩnh vực này, vì nó liên quan mật thiết với nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng của họ” (số 13).

Đòi hỏi này được tiếp nối bởi các Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (1971, các số 106,108,111) và Aetatis Novae (1992, số 18). Theo Ecclesia in Asia (số 48), nó phải thúc đẩy chúng ta “khám phá ra các cách thức để tích hợp hoàn toàn các phương tiện truyền thông đại chúng vào các kế hoạch và hoạt động mục vụ (của Hội Thánh), để nhờ sử dụng chúng một cách hiệu quả, sức mạnh Tin Mừng có thể vươn xa hơn nữa tới các cá nhân, các dân tộc và truyền vào các nền văn hoá của Châu Á các giá trị của Nước Thiên Chúa”. Đây không chỉ là một bổn phận của những người truyền thông, mà là của mọi Kitô hữu, đặc biệt các lãnh đạo của Hội Thánh. Tất cả chúng ta phải học và thực hành để trở thành những con người truyền thông trên bình diện nhân bản trước, rồi sau đó, một phần nào trên bình diện kỹ thuật.

3.4. Loan báo Tin Mừng trong truyền thông đại chúng

Bây giờ tất cả những điều này có nghĩa là gì đối với truyền thông đại chúng? Các phương tiện truyền thông sẽ tiếp tục thống trị cuộc sống chúng ta. Chúng sẽ cho chúng ta tin tức, thông tin và đặc biệt các mục giải trí. Trong lãnh vực truyền thông truyền giáo, điều này lệ thuộc rất nhiều vào cách chúng ta phản ứng thế nào đối với một ‘nơi họp chợ’ (areopagus) hiện đại như thế.

* Chúng ta có thể sở hữu các phương tiện như thế, và phần nào đi theo trào lưu thời đại. Hội Thánh hiện có những dụng cụ loại này, như Đài Chân Lý Á Châu (Radio Veritas Asia), và ở một số nơi cũng có các đài phát thanh địa phương và cả các nhật báo và nhà xuất bản.

* Chúng ta cũng có thể thử đi vào các doanh nghiệp truyền thông hiện hữu. Chúng ta có thể đề nghị hay bán các sản phẩm của chúng ta, cống hiến các chuyên gia và ý tưởng cho các doanh nghiệp này, hay đề nghị tài trợ. Việc này đặc biệt có thể thực hiện trong các hệ thống truyền thông thương mại.

* Tất cả các việc trên đây đòi phải có nhân sự có trình độ ngang tầm với các chuyên gia ngoài đời về khả năng truyền thông và quản lý truyền thông.

* Có nghĩa là phát hiện, phát triển và cổ võ các tài năng đặc biệt giữa các thanh thiếu niên của chúng ta, cũng như tìm các điều kiện tốt cho việc đào tạo và huấn luyện. Các cơ sở giáo dục Công Giáo của chúng ta có thể cống hiến các chương trình huấn luyện đặc biệt và nhờ đó chúng ta có cơ hội để phát hiện và cổ võ các tài năng trẻ.

* Phải mở rộng sự chăm sóc mục vụ cho các Kitô hữu đã đang làm việc trong lĩnh vực truyền thông. Họ có quyền mong đợi sự nâng đỡ tinh thần và nghiệp vụ từ các anh chị em Kitô hữu của họ và đặc biệt từ các lãnh đạo của Hội Thánh. Họ có thể giúp ích rất nhiều trong việc tiền-Tin Mừng hoá những con người và cộng đồng.

Chúng ta phải ý thức hơn nữa về các phát triển chuyên môn trong thời gian gần đây, chúng vạch ra cho chúng ta thấy hướng chuyển đổi từ truyền thông đại chúng sang truyền thông đơn thuần. Càng ngày, các phương tiện truyền thông đại chúng không còn là phương tiện duy nhất để nuôi dưỡng ‘quần chúng’. Nhờ hệ thống phát sóng bằng kỹ thuật số và cá nhân hoá truyền thông trên Internet, truyền thông hướng trực tiếp hơn tới các nhóm khán thính giả chuyên biệt. Hệ thống kỹ thuật số giúp gia tăng số lượng các chương trình TV và rađiô và nhờ đó tạo ra nhiều chương trình chuyên biệt hơn, ví dụ, tin tức, thông tin, phim, phong cách sống và cả các chương trình tôn giáo như ở một số nơi có “Eternal Word Television Network” (“Mạng Truyền hình Lời Vĩnh Cửu”) của Mẹ Angelica hay một số chương trình của Tin Lành. Các chương trình chuyên biệt giúp tăng sự tương tác với khán thính giả và nhờ đó mở ra các khả năng mới cho truyền thông truyền giáo.

3.5. Loan báo Tin Mừng và truyền thông

Khi kết luận phần viết về truyền thông xã hội, tài liệu Instrumentum Laboris (số 53) chuẩn bị cho Thượng Hội đồng Đặc biệt về Châu Á (1998) nhìn thấy thách thức của “Truyền thông đại chúng đối với Hội Thánh tại Châu Á bao hàm 3 lĩnh vực hành động cụ thể sau đây:

1. Hội Thánh tại Châu Á cần gia tăng sự hiện diện của mình trong thế giới truyền thông đại chúng để có thể phổ biến thông điệp Tin Mừng cũng như các giáo huấn xã hội và luân lý của Huấn Quyền Hội Thánh.

2. Hội Thánh cần đi vào ‘areopagus đương đại’ thông qua các phương tiện truyền thông xã hội để có thể Tin Mừng hoá xã hội và nhờ các giá trị của Tin Mừng mà biến đổi nền văn hoá mới đang được hình thành bởi các phương tiện truyền thông xã hội; và

3. Mọi người trong Hội Thánh, giáo sĩ cũng như giáo dân, cần nhận được một sự đào tạo cân xứng và khả năng tiếp cận các phương tiện truyền thông đại chúng và truyền thông xã hội. Đồng thời, Tin Mừng phải được đưa vào cuộc sống của những người đang kiểm soát và những người đang tham gia vào lãnh vực truyền thông đại chúng bằng những cách thức khác nhau”.

Đây là những để nghị rất hay. Nhưng song song với những điều này, chúng ta không được quên rằng truyền thông xã hội không phải chỉ là một hoạt động trong tiến trình loan báo Tin Mừng. Nó là một phần cốt yếu và không thể thiếu của mọi việc loan báo Tin Mừng. Trong một thời gian dài chúng ta đã tỏ ra quá “thiên về công cụ” và coi truyền thông và đặc biệt truyền thông đại chúng như là một phương tiện để loan báo Tin Mừng. Theo cách hiểu của chúng ta bây giờ, điều đó hoàn toàn không đủ. ĐGH Gioan Phaolô II nói trong Redemptoris Missio (số 37c) rằng “sử dụng các phương tiện truyền thông chỉ để truyền bá thông điệp Tin Mừng thì không đủ”.

Thực tại của một “văn hoá mới” cũng phải nhắc nhở chúng ta rằng việc loan báo Tin Mừng có một chiều kích truyền thông, hay đúng hơn nó là truyền thông. Vâng, chúng ta sử dụng các phương tiện nhưng chúng ta phải hết sức lưu ý rằng vượt lên trên các phương tiện, cái quyết định sự ‘thành công’ của mọi hoạt động loan báo Tin Mừng chính là cuộc sống chúng ta, chứng tá của chúng ta, và toàn thể cách cư xử và thái độ giao tiếp của chúng ta, đương nhiên là với ơn của Chúa. Trong Thần Khí của Hội Thánh thời kỳ đầu, mỗi người là một nhà truyền giáo, thì hôm nay cũng vậy, mỗi người Kitô hữu ở Châu Á phải là một ‘người truyền thông truyền giáo’.

Truyền thông truyền giáo bắt đầu bằng chứng tá đời sống, dẫn tới các mối tiếp xúc cá nhân, phản chiếu đời sống Kitô giáo cho những người ngoài và hội nhập vào các nền văn hoá địa phương nhưng không từ chối các ảnh hưởng toàn cầu. Một sự truyền thông như thế chỉ có thể là chân chính nếu nó đặt nền trên một linh đạo thâm sâu được sống vì lòng dễ dạy đối với Chúa Thánh Thần. Truyền thông truyền giáo là một thách thức đặc biệt cho việc đào luyện các sứ giả Kitô giáo và không thể làm ngơ đối với một ‘văn hoá mới’ được tạo ra bởi các phương tiện truyền thông và đặc biệt bởi các kỹ thuật truyền thông mới.

Hồng y Sepe, Bộ trưởng Thánh Bộ Truyền bá Tin Mừng cho các Dân tộc, đã nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng của việc truyền thông truyền giáo đối với Bộ của ngài trong một cuộc phỏng vấn cho ngày Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới năm 2002 (Agenzia Internazionale Fides, 2-10-2002):

“Hội Thánh thời kỳ đầu đã nhìn các con đường của Đế quốc Rôma như là một ân huệ Chúa Quan Phòng ban cho để lên đường đi truyền giáo, mặc dù biết chắc Rôma không xây những con đường đó cho Hội Thánh. Các tông đồ đã nhận lệnh của Chúa “đi khắp thế giới loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật’, các ngài đã không ngần ngại sử dụng các phương tiện giao thông ấy của Đế quốc để đi rao truyền Lời Thiên Chúa. Ngày nay, công nghệ hiện đại cống hiến những con đường mới mà tất cả chúng ta phải sử dụng vì chúng sẽ giúp chúng ta tung ra những mạng lưới xưa nay chưa từng có. ‘Một số lượng khán thính giả đông đảo quá sức tưởng tượng của các vị rao giảng Tin Mừng trước chúng ta. Vì vậy, điều mà thời nay chúng ta cần là một sự dấn thân tích cực và giàu tưởng tượng của Hội Thánh vào lĩnh vực truyền thông. Người Công giáo không được sợ hãi mở toang cánh cửa truyền thông xã hội cho Đức Kitô, để Tin Mừng của Người có thể được nghe thấy từ các nóc nhà trên khắp thế giới’ (Gioan Phaolô II, Thông điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông 2001). Thánh Bộ Truyền bá Tin Mừng cho các Dân tộc đặc biệt chú ý tới cả một đại dương những khả năng mà các phương tiện truyền thông cống hiến cho chúng ta; chúng ta tiến bước một cách táo bạo – như lời Đức Thánh Cha nói khi hô hào ‘ra chỗ nước sâu thả lưới’ và chúng ta phải cầu xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và lòng dũng cảm để thể hiện các sáng kiến mục vụ và thiêng liêng hợp với thời đại mới, nó cho phép chúng ta sử dụng với hiệu quả tối đa các công cụ mà nền văn hoá thông tin cống hiến, khi chúng ta được kiện cường nhờ tin tưởng vào lời Chúa Giêsu”.

Đức Gioan Phaolô II nhắc tới điểm này khi ngài kết luận thông điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Thông 2002. Ngài hỏi rằng khuôn mặt và tiếng nói của Đức Giêsu có hiện ra từ hàng tỉ hình ảnh trên Internet hay không, “vì chỉ khi thấy được khuôn mặt và nghe được tiếng nói của Người, thế giới mới biết được tin vui về ơn cứu chuộc của chúng ta. Đây là mục đích của việc rao giảng Tin Mừng” (xem Phần II, 5.3).

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Nội dung